Với tài nguyên rừng phong phú ở Tây Nguyên, việc xây dựng tín chỉ carbon chính là chìa khóa để khai thác tiềm năng “mỏ vàng” đang ngủ yên.
Tây Nguyên - “thủ đô” của lâm nghiệp
Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng lớn về nguồn cung ứng tín chỉ carbon ở châu Á.
Theo Trung tâm Con người và Thiên nhiên (2023), tính đến hết tháng 11/2022, gần 29,4 triệu tín chỉ carbon đã được phát hành từ 276 dự án thuộc cơ chế phát triển sạch (CDM) của thị trường carbon bắt buộc, trong đó phần lớn (204 dự án) là các dự án thủy điện. Thị trường carbon tự nguyện cũng đã hình thành, với 32 dự án phát hành tổng cộng 5,75 triệu tín chỉ carbon theo tiêu chuẩn vàng (Gold Standards), chủ yếu là các dự án thủy điện (22/32 dự án). Ngoài ra, còn có 27 dự án sử dụng tiêu chuẩn VCS (Verified Carbon Standards), phát hành 1,35 triệu tín chỉ carbon, phần lớn cũng là các dự án thủy điện (16 dự án).
Theo tính toán, nếu thực hiện được các giao dịch tương xứng, Việt Nam có thể thu về khoảng 300 triệu USD/năm từ việc bán tín chỉ carbon.
Năm 2023, Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (tương đương 10,3 triệu tấn CO2), tạo ra khoảng 51,5 triệu USD (1,25 nghìn tỷ đồng) cho Ngân hàng Thế giới (WB). Việt Nam cũng là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương nhận được khoản tiền bán tín chỉ carbon rừng từ WB. Dự kiến, con số này sẽ tăng đáng kể trong các năm tới do diện tích rừng khai thác carbon tăng và giá trị mỗi tín chỉ cũng tăng.
Trước đó, năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone. Từ nay đến hết năm 2027, Việt Nam sẽ xây dựng các hệ thống quy định và chính sách tạo nền tảng cho thị trường vận hành, cũng như thành lập và vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon, hướng đến vận hành chính thức từ năm 2028. Thị trường carbon rừng của Việt Nam có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích lớn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên - nơi được coi là “mỏ vàng” tín chỉ carbon rừng.
Tín chỉ carbon rừng được xác định từ lượng CO2 được giảm phát thải thông qua các hoạt động chống mất rừng, suy thoái rừng; quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng carbon rừng. Chủ rừng có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý và bảo vệ ra lượng hấp thụ khí CO2, từ đó phát hành tín chỉ carbon để bán.
Tổng diện tích rừng của các tỉnh Tây Nguyên hiện nay là 2,57 triệu ha, chiếm 17,5% diện tích rừng cả nước, với tỷ lệ che phủ rừng toàn khu vực đạt 45,94%. Sau năm 1975, Tây Nguyên được coi là “thủ đô” của lâm nghiệp hay một mỏ vàng rừng. Tuy nhiên, tình trạng suy giảm diện tích rừng đã diễn ra trong nhiều năm qua do phá rừng và chuyển đổi mục đích sử dụng.
Hiện diện tích rừng chỉ còn khoảng 2,1 triệu ha, trong đó gần 10% là rừng giàu, phân bố ở sáu vườn quốc gia và các rừng phòng hộ; còn lại là rừng nghèo kiệt. Không những diện tích rừng bị suy giảm, chất lượng rừng ở Tây Nguyên cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Từ “thủ đô” của lâm nghiệp, Tây Nguyên nay lại trở thành “vùng trũng” lâm nghiệp của cả nước.
Với tài nguyên rừng sẵn có ở Tây Nguyên, việc xây dựng tín chỉ carbon là chìa khóa đánh thức “mỏ vàng” đang ngủ đông. Theo các chuyên gia ngành lâm nghiệp, để khôi phục rừng Tây Nguyên, cần giải quyết bài toán kinh tế từ rừng, trong đó, việc kinh doanh tín chỉ carbon được cho là sẽ đánh thức tiềm năng và giải quyết khó khăn cho ngành lâm nghiệp ở Tây Nguyên.
Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 02/5/2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ carbon nhằm thực hiện đóng góp do quốc gia tự quyết định, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên đã lên kế hoạch triển khai các dự án.
Tín chỉ carbon - chìa khóa đánh thức “mỏ vàng” rừng Tây Nguyên
Tính đến hết năm 2023, diện tích rừng và đất lâm nghiệp ở tỉnh Kon Tum là 780.530,86 ha. Trong đó, diện tích đất có rừng là 616.123,37 ha (bao gồm 552.287,28 ha rừng tự nhiên và 63.836,09 ha rừng trồng); diện tích đất chưa có rừng là 164.407,49 ha (bao gồm 16.804,70 ha đất đã trồng chưa thành rừng). Độ che phủ rừng trên toàn tỉnh đạt 63,69%.
Tài nguyên rừng của Kon Tum có tính đa dạng sinh học cao, giàu tiềm năng cung cấp gỗ, lâm sản và giá trị phòng hộ, môi trường to lớn. Tổng trữ lượng gỗ đạt 83,316 triệu m³ và 1,15 tỷ cây tre nứa. Trữ lượng các loại lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng rất cao, có giá trị kinh tế như hồng đẳng sâm, sa nhân, nhựa thông, song mây, mã tiền, vàng đắng, ngũ gia bì, hà thủ ô, cu ly, máu chó và đặc biệt là sâm Ngọc Linh.
Ngày 24/5/2024, UBND tỉnh Kon Tum đã ra văn bản 1800/UBND-NNTN về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ carbon. UBND tỉnh yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các sở, ban ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tham mưu chỉnh sửa, bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ cho phù hợp với tình hình thực tế.
Đồng thời, tỉnh Kon Tum sẽ phối hợp tổ chức thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính quốc gia theo NDC; rà soát, tổng hợp, đánh giá hiện trạng các hoạt động và biện pháp giảm phát thải khí nhà kính trên địa bàn tỉnh để đánh giá tiềm năng tạo tín chỉ carbon và trao đổi tín chỉ carbon.
Tỉnh Đắk Lắk, với diện tích đất lâm nghiệp khoảng 735.000 ha, có nhiều tiềm năng và lợi thế về đa dạng sinh học và đất đai để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp xanh và bền vững. Với diện tích rừng lớn, đầu tháng 4/2024, Bộ NN-PTNT đã yêu cầu UBND các tỉnh chỉ đạo ngành nông nghiệp và các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch điều tra rừng, tập trung điều tra, xác định diện tích rừng, trữ lượng rừng và trữ lượng carbon rừng.
Theo các chuyên gia, Đắk Lắk hoàn toàn có thể đáp ứng các yêu cầu và điều kiện để bán tín chỉ carbon rừng. Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương cần có chính sách cụ thể, rõ ràng và hướng dẫn chi tiết để các cơ quan chức năng của tỉnh có cơ sở thực hiện.
Ông Y Biêr Niê – Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk cho biết, trong dự thảo Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh xác định phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, toàn diện dựa trên bốn trụ cột tăng trưởng: phát triển các sản phẩm nông, lâm sản quy mô lớn, chất lượng cao và xuất khẩu lớn; công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và sản xuất năng lượng tái tạo quy mô lớn; phát triển kinh tế đô thị, hạ tầng số và hạ tầng thủy lợi; phát triển dịch vụ - logistics - du lịch dựa trên nền tảng số và kinh tế số.
Lâm Đồng là một trong những địa phương có diện tích rừng lớn nhất Tây Nguyên với tỷ lệ che phủ rừng đạt 54,37% (năm 2023), với 537.696 ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 454.674 ha, diện tích rừng trồng đã thành rừng là 77.157 ha, còn lại là rừng trồng chưa thành rừng.
Đặc biệt, Vườn Quốc gia Bidoup - Núi Bà quản lý, bảo vệ tới 69.691 ha, bao gồm 57.516 ha rừng đặc dụng, 11.119 ha rừng phòng hộ và 1.050 ha rừng sản xuất.
Gia Lai có tổng diện tích tự nhiên 1.551.013 ha, trong đó diện tích rừng là hơn 646.992 ha (478.791 ha rừng tự nhiên, 153.937 ha rừng trồng và 14.264 ha rừng trồng chưa thành rừng), chiếm 85,5% tổng diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp.
Nhiều khu rừng trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã được Hội đồng Quản lý rừng thế giới cấp chứng chỉ rừng bền vững (FSC), tạo cơ hội rộng mở về nguồn tài nguyên rừng, đáp ứng cho thị trường carbon trong tương lai, mở ra nguồn thu tài chính đáng kể cho tỉnh.
Theo các chuyên gia, Gia Lai có diện tích rừng trồng lớn, nhiều khu rừng đã được Hội đồng Quản lý rừng thế giới cấp chứng chỉ rừng bền vững (FSC), tạo cơ hội đáp ứng cho thị trường carbon trong tương lai. Hiện nay, với 723 nghìn ha rừng, trữ lượng carbon rừng của Gia Lai đạt trên 150 tấn/ha, tổng cộng ước đạt 50 triệu tấn. Nếu thỏa thuận tốt với giá 5 - 10 USD/tấn, tỉnh sẽ có nguồn thu 25 - 50 triệu USD hoặc cao hơn.
Với nguồn tài nguyên sẵn có, tỉnh Gia Lai sẽ sớm thiết lập “Đề án kinh doanh tín chỉ carbon rừng” để thu hút nguồn lực đầu tư cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương, góp phần nâng cao đời sống và sinh kế cho người dân sống phụ thuộc vào rừng và giữ rừng ngày một tốt hơn.
Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Gia Lai cho biết, Đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ carbon rừng tỉnh Gia Lai sẽ xây dựng các tiêu chí như bảo tồn, phục hồi những diện tích rừng đã mất nhằm tăng trữ lượng carbon rừng trên địa bàn tỉnh; thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp vào việc phục hồi rừng và kinh doanh tín chỉ carbon rừng; đề xuất thí điểm mô hình kinh doanh tín chỉ carbon rừng với sự tham gia của doanh nghiệp.
Với 5,15 triệu tấn CO2 từ rừng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Việt Nam có thể thu gần 1.300 tỷ đồng nếu đơn vị mua trả 10 USD một tấn, theo thỏa thuận. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được Thủ tướng giao triển khai hai thỏa thuận chuyển nhượng kết quả giảm phát thải. Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp, diện tích rừng tham gia chương trình bán tín chỉ carbon ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là 4,26 triệu ha, trong đó có 3,24 triệu ha rừng tự nhiên và 1,02 triệu ha rừng trồng.
Thỏa thuận về chi trả giảm phát thải khí nhà kính Nam Trung Bộ và Tây Nguyên giai đoạn 2022-2026 đang được Bộ đàm phán với Tổ chức tăng cường tài chính lâm nghiệp. Việt Nam sẽ chuyển nhượng 5,15 triệu tấn CO2 giảm phát thải từ rừng vùng này với giá tối thiểu 10 USD/tấn CO2, tương đương tổng giá trị là 51,5 triệu USD (1.277 tỷ đồng).
Quick Links
Legal Stuff